Một số vấn đề lý luận về dân tộc các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, để chống phá nước ta và bước đầu xây dựng hệ thống thông tin phản bác.

11/12/2021

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ NĂM 2021

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN TỘC CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ NƯỚC TA VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN PHẢN BÁC

PGS.TS. Nguyễn Văn Minh

Viện Dân tộc học

 

       Mở đầu

Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, vấn đề dân tộc trở thành “điểm nóng” ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là những quốc gia có đặc điểm đa dân tộc, đa tôn giáo, đa biên giới, trong đó có những vấn đề phức tạp, nhạy cảm về nguồn gốc lịch sử và quá trình tộc người, quan hệ dân tộc, biên giới quốc gia,… Đặc biệt, các yếu tố mâu thuẫn và xung đột dân tộc, phong trào tôn giáo cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ảnh hưởng của chính sách chia rẽ để cai trị của Chủ nghĩa đế quốc trước đây… đã dẫn đến tư tưởng và hoạt động ly khai, tự trị có xu hướng tăng lên, lan rộng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Trong bối cảnh đó, ở Việt Nam trong thời gian qua, vấn đề dân tộc có những diễn biến phức tạp tại một số địa phương và một số tộc người, trở thành các điểm nóng về an ninh chính trị và trật tự xã hội, như: một bộ phận người dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên đòi lập “Nhà nước Đề ga”, một bộ phận người Hmông ở miền núi phía Bắc hoài niệm về “Vương quốc Hmông” trong truyền thuyết, một bộ phận người Khơ-me vùng Tây Nam Bộ có nhận thức chưa đúng về “Nhà nước Khơ-me Krom”, một bộ phận người Chăm vẫn còn tư tưởng về “Vương quốc Champa” xưa,... Một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nảy sinh các vấn đề dân tộc nêu trên ở nước ta là tác động của quá trình thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà bình” chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân tộc, mà mục tiêu là làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân các tộc người đối với Đảng, với Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm suy yếu hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, gây tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tính thống nhất của quốc gia Việt Nam.

Để thực hiện âm mưu này, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để lợi dụng những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc, tộc người nhằm tạo ra sự bất ổn định chính trị, gây biến động xã hội, làm rối loạn tư tưởng nhân dân, nhất là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào theo tôn giáo; các vấn đề phức tạp, nhạy cảm ở hai bên biên giới và xuyên quốc gia; giữa người dân các dân tộc với quốc gia; giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số; giữa các tổ chức và tín đồ tôn giáo... để làm nảy sinh nhiều vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa, dân tộc, tôn giáo bức xúc…; trên cơ sở đó kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đòi tự trị, ly khai,... Cách thức chủ yếu của các thế lực thù địch thực hiện là khai thác tối đa những vấn đề dân tộc, tôn giáo gắn với dân chủ, nhân quyền để kích động ở trong nước, tấn công và thâm nhập từ bên ngoài vào đất nước ta, nhất là vùng các dân tộc thiểu số, khu vực biên giới... nhằm xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, gây phương hại tới mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc, nhóm dân cư, nhóm xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm phạm chủ quyền và quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia Việt Nam.

Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần thực sự quan tâm thoả đáng hơn công tác nghiên cứu về âm mưu, chiến lược, kế hoạch và cách thức thực hiện của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng các vấn đề dân tộc để chống phá đất nước ta trên lĩnh vực dân tộc. Trên cơ sở đó, góp phần nắm bắt, hiểu biết thấu đáo nền tảng cơ sở khoa học, cơ sở lý luận mà họ sử dụng trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc, để nghiên cứu xây dựng được một hệ thống lý luận và thực tiễn phù hợp nhằm góp phần phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

       1. Một số vấn đề lý luận về dân tộc các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá nước ta   

       1.1. "Chủ nghĩa dân tộc (tộc người) xuyên quốc gia", "Chủ nghĩa giải lãnh thổ", luận thuyết về "Lãnh thổ tộc người và biên giới quốc gia", “Một quốc gia một dân tộc”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền”

       Trong quá trình tộc người (dân tộc), nhất là sự di chuyển cư đã hình thành các cộng đồng tộc người và mối quan hệ tộc người mới xuyên biên giới hay liên quốc gia. Hiện tượng này dẫn đến việc chỉ cần một sự biến động trong một tộc người ở một quốc gia nào đó sẽ có sự lan toả và ảnh hưởng đến bộ phận đồng tộc ở những nước khác, nhất là tại các khu vực có nhiều tộc người cùng sinh sống. Chính vì vậy, đã xuất hiện tư tưởng "Chủ nghĩa dân tộc xuyên quốc gia" mà thực chất là phát triển lên từ "Chủ nghĩa quốc gia dân tộc", "Chủ nghĩa bản địa" và 'Chủ nghĩa ly khai" đã có trước đó. Nói như vậy, bởi bản chất của "Chủ nghĩa dân tộc xuyên quốc gia" chính là sự nhấn mạnh đến yếu tố bản sắc dân tộc - tộc người thể hiện qua ý thức và các mối quan hệ giữa những người đồng tộc, cho dù họ cư trú ở các quốc gia và khu vực khác nhau. Từ đó đi đến kết luận rằng, lãnh thổ mỗi quốc gia luôn có giới hạn (biên giới cứng theo địa giới phân định giữa các quốc gia) và hoàn toàn có thể bị phá vỡ, nhưng biên giới của một tộc người (dân tộc) (biên giới mềm) thì không, vì nó hiện hữu ở bất kỳ đâu có người đồng tộc sinh sống và luôn bền chặt trong ý thức và quan hệ của họ.

       Đây là cơ sở lý luận để hình thành hệ tư tưởng "Chủ nghĩa dân tộc" không phải theo lãnh thổ quốc gia đã được phân định mà theo biên giới tộc người kéo dài đến đâu - tức người dân của một tộc người cư trú ở những nơi nào. Đây là lý luận gắn với thuyết giải lãnh thổ - không công nhận sự tồn tại của lãnh thổ quốc gia mà chỉ công nhận lãnh thổ tộc người. Quan điểm này hoàn toàn tách biệt và đối lập với "Chủ nghĩa dân tộc - quốc gia" gồm có nhiều tộc người cùng sinh sống đoàn kết trong một quốc gia thống nhất. Do đó, có người nhận xét đây là một hình thức của chủ nghĩa ly khai, một xu hướng của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và cực đoan, rất dễ bị lợi dụng vào việc gây mất ổn định chính trị xã hội ở các quốc gia đa tộc người; có một số tộc người cư trú ở những quốc gia khó khăn.

       Các thế lực thù địch đã lợi dụng cơ sở lý luận này để tìm cách tuyên truyền kích động tư tưởng ly khai, tự trị ở một số dân tộc thiểu số nước ta trong thời gian qua, nhất là các dân tộc và vùng đất có yếu tố nhạy cảm về nguồn gốc lịch sử, quá trình hội nhập vào quốc gia Việt Nam muộn, có quan hệ dân tộc liên biên giới và xuyên quốc gia mạnh mẽ và sâu sắc, như: dân tộc Hmông ở vùng miền núi phía Bắc, một số dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, người Chăm và Khơ-me ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

       1.2. Luận điểm về "Thuyết vị chủng tộc người”

       Tư tưởng cơ bản của thuyết này cho rằng, một số dân tộc có đẳng cấp cao hơn các dân tộc khác về mọi mặt, là trung tâm phát triển của thế giới hoặc khu vực hay quốc gia. Gắn liền với quan điểm này là tư tưởng cho rằng, văn hóa của dân tộc mình có giá trị cao hơn các nền văn hóa khác. Qua lăng kính của họ, các dân tộc khác, nhất là các dân tộc thiểu số thường lạc hậu, lười biếng, không biết làm ăn, kém tự tin, có tâm lý ỷ lại,… Do vậy, họ cho mình quyền đi xâm lược, cai trị, có “nghĩa vụ” khai hóa văn minh hay dạy bảo cho các dân tộc khác.

Dựa trên những luận điểm này, các thế lực thù địch và một số học giả nước ngoài đã và đang lợi dụng những hạn chế của chúng ta trong việc nhận định, đánh giá về tình hình phát triển và thực hiện chính sách dành cho các dân tộc thiểu số ở nước ta để xuyên tạc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc chỉ đạo hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc, nhằm thực hiện mưu đồ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc với Đảng và Nhà nước hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp.

Cụ thể, các thế lực thù địch thường phê phán chính sách dân tộc của chúng ta là thiếu tính khách quan, thiếu tính hệ thống, thiếu tính phản biện và thường mang tính “áp đặt” từ trên xuống, từ ngoài vào, “dán nhãn”, “phân biệt đối xử” của dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số. Thậm chí còn vu cáo cho rằng, chính sách của Đảng và Nhà nước ta chủ yếu là dành cho người Kinh và người Kinh được hưởng lợi là chính. Chẳng hạn như xuyên tạc Nhà nước ta “tạo điều kiện” cho các nông - lâm trường và doanh nghiệp nhà nước “lấy đất” của các dân tộc thiểu số bằng cách “cấp đất”, “giao đất” hay “làm ngơ” trước hiện tượng các tổ chức này bao chiếm nhiều đất đai, rừng núi, khiến người dân thiếu đất sản xuất và không gian sinh tồn, phải di chuyển tới những vùng khó khăn cho phát triển để sinh sống, bỏ lại đất tốt cho các nông - lâm trường và doanh nghiệp nhà nước. Kích động về nhân quyền và chủ quyền với luận điệu các doanh nghiệp nhà nước đã “xâm chiếm tài nguyên” của các dân tộc thiểu số; xuyên tạc các nông lâm trường, công ty, nhà máy, xí nghiệp, vùng đô thị phát triển, hệ thống chính trị các cấp là của người Kinh đa số nắm giữ. Từ đó kích động người dân các dân tộc thiểu số đòi lại đất đai của tổ tiên; chia rẽ nhằm làm cho người dân nghi ngờ, xa lánh, thậm chí chống đối chính quyền và đội ngũ cán bộ; tuyên truyền các yếu tố về lịch sử và quá trình phát triển của các tộc người để tăng cường ý thức dân tộc riêng thay cho ý thức quốc gia; đòi quyền tự quản đất đai truyền thống, gây chia rẽ, hằn thù giữa các tộc người, hình thành các tổ chức chính trị phản động và tư tưởng tự trị, ly khai thành lập các “nhà nước” và “vương quốc” riêng ở một số ít dân tộc thiểu số. Đồng thời, trên cơ sở đó họ cố tình áp đặt, truyền bá các tư tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền của phương Tây, đề cao tính cá nhân lên trên cộng đồng, quyền tự quyết của các tộc người cao hơn chủ quyền của quốc gia Việt Nam.

       2.3. Lý luận của "thuyết tương đối văn hoá" và quyền tự quyết dân tộc

Thuyết tương đối văn hóa do nhà nhân học Mỹ Frank Boas khởi xướng cho rằng, không có nền văn hóa nào cao hơn so với nền văn hóa khác khi so sánh về hệ thống đạo đức, pháp luật, chính trị,... Tất cả những niềm tin về một nền văn hóa vững chắc, lâu bền chỉ là tương đối, vì nó phụ thuộc vào môi trường văn hóa; mỗi nền văn hóa đều có giá trị riêng và chỉ có các chủ thể của nó hay chỉ có người trong cuộc mới có thể hiểu được. Vì vậy, giá trị của các văn hóa là không thể so sánh và không có những cái gọi là văn hóa nguyên thủy, lạc hậu, thấp kém và các nền văn hóa hiện đại, văn minh. Luận điểm cơ bản của học thuyết này là nhằm phê phán quan điểm của thuyết vị chủng ở trên cho rằng, có dân tộc và nền văn hoá cao hơn và được quyền "áp đặt" ý chí, văn hoá của mình đối với dân tộc và nền văn hoá khác. Đồng thời đề cao tính đa dạng tộc người, đa dạng văn hoá và đa dạng ngôn ngữ, đề cao khả năng thích ứng và sự tự lựa chọn của người dân dựa trên nhu cầu thực tế về các con đường và mô hình phát triển,...

Sử dụng luận thuyết này, các thế lực thù địch luôn tuyên truyền đề cao quyền tự quyết của các tộc người/cộng đồng và phê phán cách tiếp cận của chúng ta từ trước đến nay là "áp đặt" các triết lý và mô hình phát triển của dân tộc đa số đối với các dân tộc thiểu số, của miền xuôi và đô thị lên miền núi và vùng nông thôn; vu cáo và xuyên tạc các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của chúng ta dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số là áp đặt từ trên xuống nhằm "đồng hoá cưỡng bức", thậm chí qui kết "ngăn cản sự phát triển của các dân tộc thiểu số" khi thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình,...

1.4. Khái niệm và lý thuyết về tộc người xuyên biên giới/xuyên quốc gia hay “biên giới mềm” và “quyền lực mềm”

Cộng đồng xuyên biên giới/xuyên quốc gia được Kearney (1995: 559)định nghĩa là cộng đồng phân bố ở hai quốc gia, có thể dọc theo đường biên giới hoặc không. Tác giả này xác nhận rằng, trong mối liên hệ xuyên biên giới thì tính liên thế hệ của các cộng động tộc người được duy trì, không bị đứt gẫy. Cá nhân không bị tách rời khỏi mạng lưới các mối quan hệ dân tộc xuyên quốc gia dù họ sống ở các quốc gia khác nhau. Tính xuyên quốc gia được cho là tích hợp vào đời sống văn hóa thường nhật dù họ có hay không di cư xuyên quốc gia (Basch, Nina, and Christina, 1994; Ong, 1999), hoặc con cái được sinh ra trên lãnh thổ khác nơi họ từng sinh sống (Fouron and Nina, 2002). 

Theo cách hiểu trên, mạng lưới quan hệ dân tộc này không thể thiết lập trên lãnh thổ chỉ của một nước. Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia được các tác giả trên đồng thuận cho rằng, nó tồn tại ở nhiều địa phương, giữa cộng đồng tộc người ở cả hai phía của đường biên giới. Như vậy, cộng đồng tộc người xuyên biên giới có mối liên hệ với căn tính tộc người hay bản sắc tộc người. Mối liên hệ dân tộc liên/xuyên biên giới có nhiều dạng thức thể hiện mà dễ nhận thấy nhất là những phong tục tập quán phản ánh mối liên hệ xuyên quốc gia. Những tương tác trong mạng lưới quan hệ xuyên quốc gia tạo điều kiện duy trì và thúc đẩy các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy sự tiếp xúc văn hóa với cội nguồn quê hương, từ đó hình thành nên những bối cảnh năng động khác với vùng cội nguồn (Levitt, 2001: 18). Các tác giả khác như Espiritu (2003), Bao (2005), Boehm (2000, 2004), Hall (1990, 1995)và Ong (1999)đều đồng thuận rằng, những mối liên hệ xuyên biên giới và những thực hành văn hóa của tộc người góp phần tạo dựng và duy trì bản sắc tộc người đó.

Sử dụng các luận điểm này, các thế lực thù địch luôn cho rằng, quan hệ dân tộc liên biên giới và xuyên quốc gia là quá trình diễn ra tự nhiên của con người và các cộng đồng tộc người, các nhà nước không thể và cũng không có quyền dùng các đường biên giới cứng/cố định của các quốc gia để quản lý các mối quan hệ dân tộc này.

2. Bước đầu xây dựng cơ sở lý luận nhằm góp phần phản bác âm mưu chống phá nước ta của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân tộc

2.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lãnh thổ tộc ngườilịch sử tộc người ở nước ta

- Về địa bàn cư trú/lãnh thổ của các tộc người: Địa bàn cư trú của các tộc người ở nước ta như hiện nay về cơ bản đã ổn định từ rất lâu và chưa bao giờ hình thành cũng như có cái gọi là “lãnh thổ tộc người” riêng của bất kỳ dân tộc nào, bởi vì ở nước ta việc cư trú đan xen giữa các tộc người đã và ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt, từ sau năm 1960 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam, dưới tác động của chính sách di dân, di cư tự do, sự phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu tiếp xúc văn hoá, trong mấy thập kỷ qua đã khiến việc xen cư giữa các tộc người càng trở nên phổ biến ở tất cả các vùng, miền trên cả nước. Đến nay, ở khu vực miền núi, hầu như không còn xã nào chỉ có thuần một tộc người, như tại Tây Nguyên hiện nay đã có đủ 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Đáng chú ý là một số khu vực như tỉnh Hoà Bình xưa kia từng được một số nhà khoa học Pháp coi là “xứ Mường”, Sơn La được coi là “xứ Thái”, nhưng trên thực tế danh xưng này chỉ hàm ý một địa phương có dân tộc nào đó chiếm đa số mà không mang ý nghĩa lãnh thổ của dân tộc đó.

- Về nhà nước Phù Nam: Theo Lê Phương phỏng đoán nằm ở vị trí hạ lưu sông Mê Kông, bao gồm cả miền Nam Việt Nam hiện nay, phía Bắc đến tận miền Nam nước Lào, gồm cả một phần thung lũng sông Me Nam của Thái Lan và bán đảo Malắca của Malaixia, phía Đông và phía Nam giáp biển. Khi nhà nước Phù Nam phát triển thì các nước Chăm Pa, Ai Lao, Chân Lạp, Thái Lan còn chưa lập quốc. Nhà nước Phù Nam tồn tại đến năm 627, trải qua 14 đời vua thì chấm dứt và biến mất do bị Chân Lạp - một thuộc quốc của Phù Nam thôn tính. Như vậy, có thể khẳng định rằng, vùng đất Nam Bộ của nước ta hiện nay trước đây không phải của nước Chân Lạp và cũng không phải của người Khơ me ở Campuchia. Đồng thời cũng không thể nói nhà nước Phù Nam là tiền thân của nước Chân Lạp và hiện nay là Campuchia, vì đây là các quốc gia hoàn toàn khác nhau (Khổng Diễn, 2005).

- Về "Nhà nước Khmer Krom": Vấn đề này liên quan đến luận điệu cho rằng vùng Nam Bộ là của người Khơ me ở Campuchia, mà bằng chứng được đưa ra là Quốc gia Chân Lạp của người Khơ-me trước đây bao gồm cả vùng Nam Bộ, và người Khơ-me chính là chủ nhân của di chỉ khảo cổ Ốc eo ở vùng Kiên Giang, An Giang. Sau đó, vùng đất này đã bị người Pháp xâm lược và "giao cho người Việt" một cách trái phép. Do đó, họ xuyên tạc và đòi được thành lập "Nhà nước Khmer Krom" ở Nam Bộ. Có thể khẳng định rằng, những luận điệu trên là hoàn toàn không đúng sự thật lịch sử, bởi các chứng cứ khoa học sau:

+ Di chỉ khảo cổ Ốc eo hiện nay đã được các ngành khoa học trong và ngoài nước chứng minh không phải của người Khơ-me, mà là của một cư dân khác sinh sống ở Nam Bộ trước khi người người Việt và người Khơ-me di cư đến. Nhưng hiện nay, chủ nhân của di chỉ Ốc eo này cũng không còn sinh sống ở đó nữa mà khoa học chưa biết lý do chính xác cũng như xác định được đó là ai.

+ Về Quốc gia Chân Lạp của người Khơ-me, ban đầu lãnh thổ của nó bao gồm vùng Hạ Lào và đông bắc Cămpuchia. Đầu thế kỷ VIII, nước Chân Lạp bị chia thành hai là Lục Chân Lạp và Thuỷ Chân Lạp. Đến đầu thế kỷ IX, Thuỷ Chân Lạp đã thống nhất đất nước và định đô ở Ăng Co. Từ thế kỷ XIII, Chân Lạp bắt đầu suy tàn, đến thế kỷ XV do có nội chiến nên nước Chân Lạp đã tan rã. Trong quá trình này, từ thế kỷ thứ X, do quá trình biển lùi đã hình thành những vùng đất mầu mỡ tạo thành vùng đất Nam Bộ ngày này. Dưới sức ép xâm lược của Vương quốc Xiêm và sự cai trị hà khắc của Nhà nước Chân Lạp, ngày càng nhiều người Khơ-me di cư đến vùng đất Nam Bộ ngày nay để sinh sống. Cũng trong thời gian này, vùng đất Nam Bộ còn hoang hóa nên đã diễn ra những luồng di cư của các tộc người khác đến đây, như người Việt ở phía Bắc, người Chăm ở Nam Trung Bộ di cư sang Campuchia sau đó di cư tới Nam Bộ và là người Hoa từ Trung Quốc sang. Quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn từ thế kỷ XVI. Như vậy, có thể khẳng định, nước Chân Lạp xưa không bao gồm vùng đất Nam Bộ của Việt Nam ngày nay, người Khơ me cũng không phải là cư dân đầu tiên của vùng đất này, mà họ cũng chỉ là những người di cư đến như người Việt (Khổng Diễn, 2005). Do thực tế lịch sử và quan hệ giữa hai nhà nước phong kiến Việt Nam và Chân Lạp, vùng đất Nam Bộ đã từng bước trở thành một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam thiết lập chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, người Việt đã cùng các dân tộc thiểu số khác trong đó có người Khơ-me bằng sức lao động của mình đã biến vùng đất hoang vu thành đồng bằng phì nhiêu, phát triển. Đến cuối thế kỷ XVIII, thực dân Pháp đã tiến hành chiến tranh xâm chiếm vùng đất Nam Bộ của chính quyền phong kiến Việt Nam và thành lập Nam Kỳ tự trị. Chính cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có người Khơ-me trong vùng đã bỏ bao xương máu để tiến hành những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ để giành lại chủ quyền đối với đất nước nói chung và vùng đất Nam Bộ nói riêng, thu phục giang sơn trở về một cõi như ngày nay.   

- Về cái gọi là "Nhà nước Đề ga" ở Tây Nguyên: Thực chất cái gọi là "nhà nước Đề ga" là một tổ chức chính trị phản động do "Tổ chức người Thượng" ở Mỹ lập nên, mà tiền thân là tổ chức Bakajaka có từ thời Pháp thuộc và đại diện hiện nay là những thành viên của tổ chức FULRO cũ có tư tưởng chống đối Nhà nước Việt Nam bằng vũ lực tự lập ra từ thời Mỹ - Ngụy, sau 1975 lưu vong tại Mỹ. Tổ chức này không đại diện cho các dân tộc thiếu số tại chỗ của Tây Nguyên, thực chất những cuộc biểu tình, bạo loạn do họ gây ra trong những năm vừa qua ở Tây Nguyên cũng chỉ lôi kéo, kích động được một bộ phận rất nhỏ người dân thuộc một số ít dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên theo Tin Lành chủ yếu tham gia.

- Về cái gọi là “Vương quốc Hmông”: Theo truyền thuyết lịch sử của tộc người Hmông, họ đã từng có một “quốc gia riêng” hùng mạnh ở vùng Lưỡng Hà của Trung Quốc cách đây khoảng 2.500 năm. Nhà nước này bị tộc người Hàn chinh phục và người Hmông từ đó phiêu tán đi các nơi khác, như một số tỉnh ở vùng Nam Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu của các học giả quốc tế đã cho thấy đó chỉ là truyền thuyết lịch sử, bởi hiện nay khoa học chưa tìm ra được bất kỳ chứng cứ nào khẳng định về một quốc gia của người Hmông đã từng tồn tại, như: tiền tệ, chữ viết, thành quách, di tích, thờ tự... Do vậy, sự tồn tại của cái gọi là “Vương quốc Hmông” ở Trung Quốc xưa chưa được khoa học khẳng định. Đặc biệt hơn thế nữa, “Vương quốc” đó nếu có thật thì cũng không phải ở vùng Bắc Đông Dương và Nam Trung Quốc như một số thế lực vẫn tuyên truyền và mong muốn tái lập lại “vương quốc” đó hiện nay, mà là nằm sâu trọng nội địa của Trung Quốc.

2.2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xác định thành phần dân tộc

Vấn đề xác định thành phần dân tộc và Bản danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam được công bố chính thức năm 1979 và sử dụng đến nay là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của các nhà khoa học, là ý chí, nguyện vọng và sự đồng thuận cao của đại diện các tộc người thông qua những hội nghị, hội thảo khoa học và xin ý kiến của nhân dân tại thời điểm đó. Hoàn toàn không phải ý muốn chủ quan của các nhà khoa học và sự "áp đặt" của Nhà nước ta như các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc. Tuy nhiên, tộc danh và thành phần dân tộc là một phạm trù lịch sử, có thể biến động nên hiện đang đặt ra một số vấn đề mới cần giải quyết. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, vấn đề xác minh lại thành phần dân tộc ở nước ta cần được cân nhắc cẩn trọng, có sự chỉ đạo chặt chẽ và xử lý chuẩn xác, không tạo thành cớ để các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng trong việc tuyên truyền, xuyên tạc, chống ta vi phạm về quyền tự quyết dân tộc. Bên cạnh đó, vấn đề một số tộc người hay nhóm địa phương muốn đổi tên tộc danh, hoặc muốn tách ra thành một tộc người riêng nổi lên trong thời gian qua, không ít là do tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong các đề nghị của một số tộc người hay nhóm địa phương muốn có tộc danh riêng, hiện nay ngoài nhu cầu chính đáng xuất phát từ ý thức tự giác tộc người còn liên quan đến những lợi ích khác nhau, nhất là việc Nhà nước ta thực hiện nhiều chính sách đầu tư ưu tiên cho dân tộc thiểu số có dân số ít. Do đó, cần xem xét cẩn trọng, xác định đúng bản chất vấn đề ở từng tộc người, từng nhóm địa phương để giải quyết thỏa đáng yêu cầu thực tế đang đặt ra.

2.3. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa văn hoá tộc người và văn hóa quốc gia

Văn hóa tộc người được hình thành trên cơ sở môi trường tự nhiên, các điều kiện về kinh tế - xã hội, lịch sử cư dân và trong mối quan hệ với các tộc người khác. Trong các quốc gia đơn tộc người thì văn hóa tộc người đồng nhất với văn hóa quốc gia; còn tại quốc gia đa tộc người như Việt Nam thì văn hóa tộc người chỉ là một bộ phận của văn hóa quốc gia. Nghĩa là nền văn hóa quốc gia là tổng hợp hài hòa văn hóa của các tộc người. Văn hóa tộc người và văn hóa quốc gia có mối quan hệ khăng khít, bởi văn hóa tộc người là bộ phận hợp thành của văn hóa quốc gia. Chính vì thế, các nhà văn hóa học cho rằng, nói đến các đặc trưng sinh hoạt văn hóa của một tộc người không chỉ nói đến những giá trị tiêu biểu nhất về vật chất và tinh thần của tộc người đó hình thành trong quá khứ, mà còn phải xem xét vị trí, đóng góp của văn hóa đó trong nền văn hóa quốc gia.

Khi nói đến mối quan hệ giữa văn hóa tộc người và văn hóa quốc gia, cần phân định theo một “trật tự”: văn hóa tộc người chỉ là bộ phận hợp thành nên phải “hội nhập” và làm giàu cho văn hóa quốc gia, hay dựa trên những nét tiêu biểu chung nhất của văn hóa các tộc người để xây dựng nền văn hóa quốc gia. Văn hóa quốc gia là cơ sở để xây dựng và củng cố ý thức quốc gia, là sợi dây gắn kết các tộc người; trong khi văn hóa tộc người chỉ có tác dụng gắn kết nội bộ từng khối cư dân đó. Quá đề cao văn hóa tộc người là biểu hiện của tư tưởng cục bộ dân tộc (chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi) (bao hàm cả cục bộ dòng họ, cục bộ địa phương), ảnh hưởng đến củng cố khối đoàn kết dân tộc - quốc gia, trường hợp ở vùng biên giới sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ an ninh biên giới, đến chủ quyền quốc gia. Tại những vùng này, các tộc người đều có mối quan hệ về huyết thống, tình cảm, tôn giáo tín ngưỡng, hôn nhân, kinh tế với đồng tộc ở biên kia biên giới, cho nên ý thức về tộc người có thể sâu đậm hơn so với ý thức quốc gia - dân tộc, quan hệ dòng họ, bạn bè, làm ăn xuyên biên giới chi phối tâm tư, suy nghĩ của một bộ phận cư dân... nên dễ bị các thế lực lợi dụng chống phá đất nước. 

Trong bối cảnh mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, các quốc gia đều chú ý đến việc củng cố ý thức quốc gia - dân tộc, làm ngọn cờ đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, để tiếp thu các thành tựu và giá trị văn hóa thế giới. Việt Nam cũng không ngoài quy luật đó. Trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam, sự biến đổi và ảnh hưởng văn hóa của dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển là tất yếu. Tương tự như vậy, ngay trong một vùng sự ảnh hưởng của dân tộc thiểu số nhưng có dân số lớn hơn các dân tộc thiểu số khác cũng đã và đang diễn ra. Sự ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam tới văn hóa các dân tộc thiểu số trong nước ngày càng mạnh mẽ, nhất là ở những địa bàn cư trú xen kẽ, gần đô thị hay vùng thấp, gần đường giao thông. Do đó, có thể nói đấy là sự đồng hoá tự nhiên diễn ra một cách tự nguyện của người dân. Tương tự như vậy, chúng ta thấy hiện tượng này đã và đang diễn ra ở tất cả các nước trên thế giới. Đặc biệt, một số nước như Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan... là những quốc gia áp đặt mạnh mẽ nhất văn hoá và ý chí của dân tộc chủ thể lên các dân tộc thiểu số. Trong thời gian đầu xâm chiếm vùng Bắc Mỹ và Châu Úc ngày nay, những người di cư châu Âu đã giết hàng loạt người dân bản địa để chiếm đất và áp đặt văn hoá của mình, dẫn đến rất nhiều tộc người bản địa Châu Mỹ và Châu Úc đã bị diệt chủng. Chính vì vậy, các nước này đã từ chối ký vào Bản Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền của người bản địa.

2.4. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về qui luật phát triển tộc người

Trong lịch sử nước ta đã từng diễn ra sự phát triển không đồng đều giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc thiểu số ở miền núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Điều đó được thể hiện ở thể chế chính trị và cấu trúc xã hội, trình độ kỹ thuật và điều kiện phát triển kinh tế. Lý do chính để người Kinh có điều kiện phát triển hơn các tộc người khác là bởi họ là cư dân đầu tiên tụ cư ổn định và lâu đời trên một địa bàn có nhiều thuận lợi để giao lưu và phát triển. Vấn đề tộc người chủ thể thường phát triển hơn các dân tộc thiểu số cũng là hiện tượng phổ biến đã và đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia đa tộc người trên thế giới, được coi như là một quy luật khách quan chứ không riêng ở Việt Nam.

2.5. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi tôn giáo tín ngưỡng

Thực tế là Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để các tôn giáo được hoạt động bình đẳng, người dân được quyền tự do tín ngưỡng. Chúng ta không ngăn cấm và chống lại các tổ chức tôn giáo cũng như sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân, mà chỉ tiến hành quản lý Nhà nước nhằm phòng và chống lại việc tuyên truyền, sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật. Nước ta cũng không có sự "ức hiếp và phân biệt đối xử với tín đồ tôn giáo", không có "tù nhân tôn giáo" và "tù nhân lương tâm"... như các thế lực thù địch vẫn rêu rao, mà chúng ta chỉ kiên quyết xử lý những công dân Việt Nam, trong đó có một số tín đồ tôn giáo, người dân các dân tộc thiểu số đã vi phạm Hiến pháp và pháp luật hiện hành của Nhà nước.

Kết luận

Các kết quả nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra rằng, trong nhiều năm qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chỉ đạo, tài trợ, nuôi dưỡng, cử cố vấn để thành lập những tổ chức, hội, nhóm trong đó có nhiều tổ chức chính trị phản động đội lốt các tổ chức xã hội, văn hoá, tôn giáo... của người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có không ít thuộc một số dân tộc thiểu số, nhằm tập hợp những đối tượng tham gia chế độ nguỵ quân, nguỵ quyền cũ, trí thức và người có tư tưởng cực đoan, bất mãn để làm công cụ thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”. Việc hình thành những tổ chức này là để hợp pháp hoá hoạt động, giương cao "ngọn cờ" vì dân tộc để lôi kéo tập hợp lực ở trong và ngoài nước, tạo tư cách phát ngôn và cung cấp thông tin, gây thanh thế và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế, làm bàn đạp để xâm nhập và trực tiếp thực hiện các hoạt động gây rối chống phá ta ở trong nước,... Trong đó, ngoài các tổ chức của người Kinh, còn có nhiều tổ chức của người Hmông, người Dao, người Thái, người Chăm, người Khơ-me và một số dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên. Từ các tổ chức ở nước ngoài tiến đến xâm nhập vào hoạt động trong nước dưới các hình thức đã được "địa phương hoá", "dân tộc hoá" và "tôn giáo hoá", chẳng hạn như: “Vương quốc Hmông” gắn với “Tin Lành Vàng Chứ” ở người Hmông và Tin Lành Thìn Hùng ở người Dao; “Nhà nước Đề ga” gắn với “Tin Lành Đề ga” ở Tây Nguyên; vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ, ngoài cái gọi là "Vương quốc Chăm", trước đây người Pháp còn dung dưỡng một số tổ chức khác của người Chăm như: “Hội Chăm - Thượng phục hưng", “Đội quân Chăm - Thượng",... Còn đối với người Khơ-me, họ triệt để thực hiện mưu đồ thành lập "Vương quốc Khơmer Krom" của người Khơ-me Tây Nam Bộ, Liên đoàn Khơmer Campuchia Krom còn đòi được thành lập "Văn phòng đại diện nhân quyền" ở Tây Nam Bộ để giám sát tình trạng nhân quyền đối với người Khơ-me. Các tổ chức này sau khi xâm nhập vào trong nước thì triệt để áp dụng các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, ép buộc người dân đi theo, nhất là kích động tư tưởng ly khai tự trị, phân biệt giữa người Kinh với các tộc người thiểu số, hình thành tư tưởng hướng ngoại trông chờ vào bên ngoài, lôi kéo người dân tham gia biểu tình đấu tranh với chính quyền, kích động di cư tự do và vượt biên trái phép,...

Thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, một số tổ chức và thế lực nước ngoài luôn triệt để lợi dụng và đẩy mạnh việc chính trị hoá, quốc tế hoá các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, chủ quyền nhằm gây mất ổn định xã hội, tạo cớ gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Chẳng hạn như đơn phương đưa Việt Nam vào diện các nước ngăn cấm tôn giáo; kích động, hậu thuẫn cho một số tổ chức và cá nhân chống đối cực đoan là các tộc người thiểu số hay tín đồ hoạt động chống phá; lợi dụng các diễn đàn quốc tế vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo khi một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng bị xử lý theo pháp luật, vu cho ta "ức hiếp" và "xua đuổi" người dân tộc người thiểu số khi họ tự di cư tự do và vượt biên trái phép,... Đặc biệt, những năm gần đây họ còn tổ chức nhiều phiên điều trần, hội thảo, họp báo, ra tuyên bố xuyên tạc tình hình thực tế, vu khống chính quyền Việt Nam bắt giam, ngược đãi những người bất đồng chính kiến, người dân các tộc người thiểu số, các chức sắc và tín đồ tôn giáo, ngăn cấm tự do tín ngưỡng và tự do ngôn luận; kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, hận thù giữa người dân các tộc người thiểu số và người Kinh; tìm cách khoét sâu vào những vấn đề dân tộc bức xúc như đất đai, phân hóa xã hội và một số hạn chế nảy sinh trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa phương. 

Các thế lực thù địch còn triệt để sử dụng các kênh thông tin, nhất là bưu chính viễn thông để chuyển tải một khối lượng lớn các thông tin và tài liệu phản động, tài liệu tôn giáo bất hợp pháp cho những tổ chức trong nước phát tán, nhằm lôi kéo người dân theo đạo, kích động tư tưởng ly khai, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để bôi nhọ chế độ và gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong quần chúng nhân. Đáng chú ý là việc sử dụng các đài phát thanh bằng tiếng dân tộc rất phù hợp với đặc điểm cư trú phân tán và cách trở ở miền núi và vùng dân tộc, như: FEBC, Veritas hay thuê và phát sóng chương trình "Tiếng nói FKK" ở Campuchia,... Trong đó, điển hình là đài FEBC bắt đầu phát sóng vào nước ta từ năm 1960, đến giữa những năm 1980 với kỹ thuật phát sóng tiên tiến và công suất lớn đã phủ sóng khắp các vùng tộc người thiểu số. Hiện nay, đài FEBC đã phát gần 30 tiếng tộc người thiểu số và tiếng Việt, dự kiến tới năm 2020 sẽ là 54 tiếng dân tộc ở nước ta. Bên cạnh đó, còn chú trọng tăng thêm thời lượng và chất lượng phát sóng, nhất là cải tiến và cập nhật nội dung, vừa phong phú và phù hợp với tâm lý từng dân tộc, vừa thông qua nghệ thuật diễn đạt tốt bằng sự phát âm chuẩn của phát thanh viên, sử dụng từ ngữ ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ... để cuốn hút người nghe. Chính vì vậy, đài FEBC đã thực sự đi vào đời sống của một bộ phận người dân, nhất là các tộc người thiểu số ở vùng núi cao, vùng xa xôi, hẻo lánh. Đánh giá về hiệu quả của các đài phát thanh này, có ý kiến cho rằng: Đây là cuộc chiến không có biên giới, vách ngăn; từ trung tâm đầu não xa xôi có thể đánh thẳng vào bất kỳ nơi nào trên thế giới; cuộc chiến này có thể cùng lúc diễn ra trên diện rộng, tác động đến nhiều đối tượng trên những địa bàn hoàn toàn khác nhau. Còn một số giới chức Tin Lành đã nhận định, ở khắp nơi, hàng chục ngàn người không biết đọc, biết viết và chưa hề gặp mục sư… đã được nghe giảng Tin Lành. Trong khi đó, chi phí cho hoạt động này lại rất thấp. 

Tiến hành tổ chức các hoạt động khoa học về vấn đề dân tộc, tộc người, nhất là các Hội nghị quốc tế về người Hmông, người Dao, người Thái, người Khơ-me, người Chăm,... Đặt hàng các tổ chức và nhà khoa học nghiên cứu những vấn đề có thể lợi dụng, nhất là về lịch sử và tâm lý tộc người của một số tộc người thiểu số như: Vua nước, Vua lửa và "Vương quốc Se-dang" ở Tây Nguyên; "xưng vua", "đón vua" và "Vương quốc Hmông" ở Tây Bắc; nhà nước Chămpa của người Chăm ở duyên hải miền Trung hay Chân Lạp của người Khơ-me ở Nam Bộ,... Thông qua các hoạt động khoa học để thu thập thông tin một cách chính thống, tìm kiếm chứng cứ để khơi gợi, kích động tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và ly khai tự trị ở một số tộc người. Bên cạnh đó, còn hỗ trợ một số tổ chức xuất bản các ấn phẩm khoa học để công bố những thông tin theo định hướng của họ, như những tổ chức phản động người Khơ-me có các Tạp chí: Tiếng nói cộng đồng ở Campuchia, Tiếng nói Khơmer Campuchia Krom ở Mỹ,... 

       Từ một vài hiện tượng riêng lẻ về vấn đề dân tộc, tộc người của một bộ phận nhỏ người dân tại một số đia phương, họ thường thổi phồng lên và qui về bản chất. Đây là một trong những đặc trưng nổi trội trong cách hành xử và luận thuyết của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, sau các vụ biểu tình và bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001 đến nay, đã xảy ra một số va chạm và mâu thuẫn giữa người Kinh với người dân các tộc người thiểu số tại chỗ, vốn chỉ là những trường hợp riêng lẻ và chủ yếu liên quan đến lợi ích cá nhân, như quyền lợi về đất đai hay tài sản,… Nhưng các thế lực thù địch dựa vào đó đã thổi phồng lên thành mâu thuẫn dân tộc, khiến "người Kinh không dám đi một mình làm nương rẫy vì sợ bị người Thượng giết", còn "người Thượng cũng không dám đi đến nơi người Kinh sinh sống vì sợ bị đánh hội đồng",… Từ đó đưa ra luận điệu xuyên tạc rằng, "xã hội ở Tây Nguyên đã hỗn loạn" và kêu gọi cộng đồng quốc tế phải tiến hành các biện pháp khẩn cấp để "bảo vệ tính mạng của người dân", “bảo vệ quyền con người”,...

 

 

       Kiến nghị

       Để góp phần thực hiện thành công chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII và hạn chế sự chống phá nước ta trên lĩnh vực dân tộc của các thế lực thù địch, từ kết quả nghiên cứu và tình hình thực tế của đất nước hiện nay cho thấy, trong thời gian tới công tác dân tộc và nghiên cứu về dân tộc của nước ta cần tiếp tục thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nguyên tắc, mục tiêu, nhiệm vụ đã được xác định rõ trong những văn kiện của Đảng, Nhà nước và Hiến pháp, đồng thời chú ý đến một số nội dung mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn của thế giới, khu vực và đất nước. Trong đó cần tập trung vào một số nội dung cốt lõi sau: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam thống nhất. Chính sách dân tộc là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách quốc gia, nhiệm vụ then chốt của chính sách dân tộc là nhằm giải quyết hài hòa và phát triển các mối quan hệ dân tộc tốt đẹp, đặc biệt là quan hệ của các tộc người với cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam, để góp phần tăng cường ý thức quốc gia, tiếp tục thực hiện thành công Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam thống nhất, vững mạnh. Đảng và Nhà nước đảm bảo các tộc người được bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi quan điểm, hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách kiến tạo cơ hội, phát huy thế mạnh tiềm năng sẵn có và huy động sức mạnh nội lực của các tộc người, các tôn giáo nhằm phát triển tổng thể, toàn diện cho các tộc người, trong đó đặc biệt quan tâm đến các tộc người ở vùng biên giới, hải đảo, những vùng có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp cần có thêm sự hỗ trợ phù hợp để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, thành công hơn trong quá trình đổi mới và hội nhập cùng đất nước.   

       Trong bối cảnh hoạt động lợi dụng của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi và phức tạp như vậy, công tác nghiên cứu và công tác dân tộc đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu cơ bản, tổng kết lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận vững chắc, giải pháp khả thi để góp phần thực hiện thành công các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời chủ động phòng, chống hiệu quả hơn những nội dung và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tộc người để chống phá nước ta. Trong đó cần chú ý một số điểm như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới nhận thức tư duy, lý luận trong hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với bối cảnh quốc gia đa tộc người cũng như tính đặc thù trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc, chính sách phát triển các tộc người và thực hiện quyền con người, nhất là cho các tộc người thiểu số trong bối cảnh nước ta hiện nay nhưng vẫn đảm bảo được thông lệ quốc tế. Đây chính là giải pháp hữu hiệu để chống lại sự xuyên tạc, chống phá nước ta của các thế lực thù địch, bởi vì vấn đề này thường bị lợi dụng để chống phá trên lĩnh vực dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,...

Thứ hai, tập trung nghiên cứu thật cơ bản, chuyên sâu, có hệ thống về những khái niệm, lý thuyết, quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài về vấn đề dân tộc, tộc người. Trong đó, cần đặc biệt quan tâm đến các lý thuyết và thực tiễn về: dân tộc, tộc người và phân loại tộc người; về xây dựng, phát triển quốc gia - dân tộc và tộc người trong quốc gia đa dân tộc; về xây dựng, phát triển ý thức quốc gia và văn hóa quốc gia trong sự đa dạng và biến đổi văn hóa tộc người dưới tác động của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa; về “lãnh thổ tộc người” và “biên giới quốc gia”; về đồng thuận xã hội và xung đột tộc người; về ly khai tự trị; về nhân quyền, chủ quyền và quyền tự quyết,...

Thứ ba, nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề dân tộc cả nội dung và luận điệu thường bị các thế lực thù địch lợi dụng vào âm mưu “diễn biến hoà bình” ở nước ta. Trong đó, tập trung vào hai nhóm nội dung chính là: (i) Những vấn đề lịch sử, nguồn gốc tộc người và quan hệ dân tộc; (ii) Những vấn đề trong hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc gắn với hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ.

Thứ tư, nghiên cứu kỹ lưỡng các tổ chức đối lập, chính trị phản động của người Việt Nam ở trong và ngoài nước, cũng như những hình thức và cách thức mà các tổ chức này sử dụng để chống phá nước ta; nghiên cứu về nội dung và hình thức ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đối với những tổ chức và hoạt động của các tổ chức phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước.

Tài liệu tham khảo

1. Bao, Jiemin (2005), Marital Acts: Gender, Sexuality, and Identity Among the Chinese Thai Diaspora, Honolulu: University of Hawaii Press.

2. Boehm, Deborah A. (2000), Gender(ed) Migrations: Shifting Gender Subjectivities in a Transnational Mexican Community, The Center for Comparative Immigration Studies, San Diego: University of California.

3. Boehm, Deborah A. (2004), “From Both Sides”: (Trans)nationality, Citizenship, and Belonging among Mexican Immigrants to the United States, Paper presented at the Selected Papers on Refugees and Immigrants.

4. Basch, Linda, Nina, Glick Schiller, & Christina, Szanton Blanc (1994), Nations Unbound: Transnational Projects, Postcolonial Predicaments, and Deterritorialized Nation-States, Langhorne, PA: Gordon and Breach.

5. Khổng Diễn (2005), Những vấn đề bức xúc về dân tộc ở nước ta hiện nay, Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ cấp Bộ, Viện Dân tộc học, Hà Nội

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập I và tập II), NXB. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

7. Espiritu, Yen Le (2003), Home Bound: Filipino American Lives Across Cultures, Communities, and Countries, Berkeley: University of California Press.

8. Fouron, Georges E., & Nina, Glick Schiller (2002), “The Generation of Identity: Redefining the Second Generation Within a Transnational Social Field”, In Peggy Levitt and Mary C. Waters (ed.), The Changing Face of Home (pp. 168-210), New York: Russell Sage Foundation.

9. Hall, Stuart (1990), Cultural Identity and Diaspora. In Rutherford J. (ed.), Identity: Community, Culture, Difference (pp. 222-237), London: Lawrence & Wishart Limited.

10. Hall, Stuart (1995), “New Culture for Old”, In Doreen Massey and Pat Jess (ed.), A Place in the World?: Places, Cultures and Globalization (pp. 175-213), Oxford.

11. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (sửa đổi, bổ sung mới), Nxb. Hồng Đức.

12. Kearney, M. (1995), “The Local and the Global: The Anthropology of Globalization and Transnationalism”, Annual Review of Anthropology, No 24, pp. 547-565.

13. Levitt, Peggy. (2001). Introduction The Transnational Villagers (pp. 1-28). Berkeley: University of California Press.

14. Nguyễn Văn Minh (2017), “Về một số vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và định hướng nghiên cứu, chính sách”, trong Viện Dân tộc học: Những vấn đề dân tộc và tộc người cơ bản, cấp bách ở nước ta hiện nay: Lý luận và thực tiễn Kỷ yếu Hội nghị khoa học quốc gia), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Ong, Aihwa (1999), Flexible Citizenship: The Cultural Logics of Transnationality, Durham NC: Duke University Press.



Các tin đã đưa ngày: